Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

BẢN GIAO HƯỞNG DANG DỞ

Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, 9 bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng "Unfinished Symphony" cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solopiano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.
Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếngJohann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.
Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là thứ bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời nhưFranz LisztRobert SchumannFelix Mendelssohn.
Ngày nay, Schubert được xếp hạng là một trong số những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của những năm cuối thời kỳ cổ điển, đầu thời kỳ lãng mạn, và các tác phẩm của ông thường xuyên được trình diễn nhiều trong những năm đầu thế kỷ 19.
Schubert - Symphony no. 8 in B minor D 759 "Unfinished"

Theo thể thức chung, một bản Giao hưởng ( Symphony)  có bốn chương. Các bản giao hưởng khác của Schubert cũng vậy.Nhưng bản giao hưởng số 8 này của ông chỉ có hai chương. Ông vẫn viết tiếp các bản giao hưởng khác đầy đủ, nhưng không hoàn thiện bản giao hưởng này. Phải chăng, như định mệnh của ông, cuộc đời ngắn ngủi nhưng tuyệt vời. Schubert còn được đông đảo người yêu nhạc biết đến với bản Serenade ( cũng có thể thấy ở dạng ca khúc ), viết cho dàn nhạc dây, cũng có những chuyển thể cho Guitar


Bắt đầu ở hình thức sonata , nhẹ nhàng bởi một vài nhạc cụ bộ dây, theo sau là một chủ đề được chia sẻ bởi oboe solo và clarinet. Sự chuyển tiếp  của Schubert thường ngắn gọn chỉ gồm bốn biện pháp đối với hai thái cực rõ ràng,
Giai điệu mở đầu:Trầm buồn với Violon Cell và ContrlBass
Giai điệu chủ đề 1: kèn Oboa và Clarinet Ai oán, đặt câu hỏi khó trả lời, một sự bế tắc nhẹ, đôi lúc chát chúa khó chịu, dồn dập như dồn ép tư tưởng những lúc lên cao trào với sự phụ họa thêm nhắc lại liên tục của dàn dây trên một vài biến tấu nhẹ.
Giai điệu chủ đề đối lập:  Lạc quan, tươi mới, trữ tình, thổn thức như tình yêu đầu, không cần biết đến đau khổ của sự kết thúc, có tiết tấu khỏe như điệu nhảy thanh thoát của thiếu nữ , giai điệu này, đôi lúc lại vang lên lúc đầu còn nhỏ nhẹ , thì thầm sau đó có lúc phủ định giai điệu 1. Được thực hiện với Violoncell , sau đó được phụ họa của dàn dây, như nhún nhường, khiêm tốn nhưng dứt khoát, không khoan nhượng đấu tranh với giai điệu chủ đề

Chương 2 vẫn viết ở thể sonata không mở rộng, tốc độ chậm vừa andante vẫn là sự đối thoại của hai chủ đề  .Đôi lúc người nghe như hướng về ký ức. Có lúc lại như đang ngắm bình minh đang lên trên mặt biển, với những con tầu đang chuẩn bị ra khơi, mà người đứng trên bờ vẫn mong tìm thấy một cánh buồm hy vọng sẽ trở về từ nơi chân trời .Về cuối có một chủ đề rất lạ,  một nét giai điệu lạc quan, da diết như luyến tiếc, thể hiện bởi dàn dây violin nhẹ nhàng lúc đầu còn nhỏ nhẹ, sau được nhắc lại liên tục như lớp lớp sóng vỗ vào bờ cát xen lẫn càng ngày càng chồng lấn lên những nét giai điệu u tối. Chương 2 kết  thúc nhẹ nhàng bất ngờ, như bé thơ chìm vào giấc ngủ .
Có nhiều người đặt vấn đề viết tiếp cho đủ 4 chương của bản giao hưởng này, nhưng chưa ai thành công, giống như pho tượng Venus bằng cẩm thạch ở Hy lạp không ai có thể làm thêm cánh tay cho bức tượng bất hủ ấy.
MỚI HAY, CÓ NHIỀU THỨ DANG DỞ MỚI ĐẸP VÀ LÀM NGƯỜI TA NHỚ MÃI!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét